Cành Bông Giấy - Phần III

Name:
Location: Vietnam

Thursday, July 07, 2005

Chương 7

Hoài niệm

Cái Tết buồn thảm quạnh quẽ rồi cũng trôi qua. Từ đó, ban ngày bận bịu với sinh hoạt không nói làm chi, nhưng ban đêm không gian càng trở nên lạnh lẽo hơn. Ăn tối xong, mấy mẹ con rút lại hết trong một phòng. Các chị giờ cũng ít lên lầu, kéo hết xuống phòng khách dưới nhà học bài. Trên lầu hai phòng rộng thênh thang giờ hầu như để dành cho tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy nó rộng mênh mông như thế này. Mỗi lần lên lầu tôi thấy lạnh lẽo, hoang vắng và đơn côi quá! Sau khi bố mất, tôi trở nên ít nói hơn. Tôi hiểu một cách chua xót rằng ở tuổi thơ, những đứa con côi cút, thiếu cha, hoặc mẹ là một niềm đại bất hạnh! Trong tám đứa con của mẹ, có lẽ tôi là đứa nhạy cảm nhất.

Người ta chiều đến mới thấy buồn, còn tôi sáng ra mở mắt thức dậy đã thấy buồn rồi! Cái buồn miên man nó cứ đeo theo tôi suốt cả ngày, suốt từ sáng đến tối, rồi từ ngày này qua ngày khác… Nỗi xót xa day dứt triền miên trong lòng tôi, trước một mất mát quá lớn, tôi làm việc học hành không được tập trung, vốn đã học dở vì lười biếng, năm ấy tôi học kém đi một cách thảm hại, đứng gần chót lớp! Cái phiếu điểm hàng tháng tôi không dám đưa tận tay mẹ mà để trên bàn học. Bữa sau tôi lặng người khi nhìn tờ phiếu điểm, chữ ký của mẹ đọng mực đã bị nhòe đi. Tôi lặng người khi hiểu ra đó chính là những giọt lệ cuối cùng đã gần cạn khô của mẹ đã nhỏ xuống vì tôi!

Ngày qua, tôi có cảm giác nỗi buồn nó hành hạ len lỏi vào tận cùng ngõ ngách của tâm hồn. Đậm nét nhất là mỗi năm cứ đến ngày tựu trường, mỗi đứa học sinh được phát một Thành Tích Biểu. Mặt trước ghi tên học sinh, lớp và niên khóa. Mặt trong ghi điểm của mỗi môn học. Mặt sau là lý lịch học sinh, phần ghi tên cha mẹ, nghề nghiệp và địa chỉ. Như mọi năm, năm nay tôi lên lớp Chín. Nhận tờ Thành Tích Biểu, tôi vẫn điền tên bố nhưng cây viết khựng lại ở hàng dưới. Biết viết gì bây giờ khi bố đã không còn nữa? Tôi đành để trống hàng này. Không hiểu tại sao tôi lại làm như thế, nhưng tôi không tài nào có đủ can đảm để ghi vào một chữ "chết" oan nghiệt lạnh lùng.

Trong lớp cũng có vài đứa bạn bất hạnh côi cút như tôi, có đứa mất cha, có đứa không còn mẹ. Tự nhiên tôi cảm thấy như là một sự đồng cảm, đồng cảnh ngộ, khiến tôi dễ thân với mấy đứa bạn này hơn. Thấy tôi suốt ngày buồn ủ rũ, các bạn tôi cũng tội nghiệp lâu lâu tỏ vẻ an ủi chia xẻ, nhưng nào có lấp đầy được nỗi xót xa trong thâm tâm tôi. Lúc đó tôi hay suy nghĩ vẩn vơ, tôi thấy sao chúng nó dường như vẫn vô tư hồn nhiên, mỗi khi nhắc đến người đã mất, chúng chỉ thoáng buồn một chút thôi. Không như con người của tôi mỗi khi nhắc đến thân phận côi cút của mình, là tôi buồn tủi, nghẹn ngào chẳng nói được thành lời. Có lẽ chúng vô tư hơn, không như tôi ngay tuổi còn nhỏ đã sớm miên man những mạch sầu đa cảm. Cảm giác ấy kéo dài mãi trong tôi khó nguôi ngoai.

Tất cả những đồ vật của bố, mẹ gói lại cẩn thận để ở một nơi kín đáo trong góc tủ. Ngay từ nhỏ tôi là người sống với nhiều tình cảm quyến luyến. Những đồ vật chung quanh tôi đều mênh mang kỷ niệm, vì tôi đã có ý thổi vào nó một linh hồn. Đôi khi vô tình mở tủ bắt gặp cái tàn thuốc lá của ông nội, cái đồng hồ đeo tay, cái bóp da, cặp kiếng mát bố vẫn thường dùng khi lái xe… tim tôi lại nhói đau. Nhưng những đồ vật nhỏ còn cất dấu được, còn như chiếc xe Honda của bố thì dấu vào đâu? Chiếc xe Honda, con ngựa già trung thành của bố. Nó được dựng nơi phòng khách đã mấy tháng nay bụi bám đầy. Nó đã từng chứng kiến biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn với gia đình tôi. Từng vòng bánh xe chuyên chở biết bao kỷ niệm khó phai nhòa. Giờ đây nó được dựng sát ngay bàn thờ của bố. Như con ngựa già mất chủ, đầu nó quẹo sang một bên, dường như nó cũng đang chia xẻ nỗi buồn đau tức tưởi như tôi.

Mấy tháng sau, mẹ đành bán đi chiếc xe của bố. Không nói nhưng chúng tôi đều hiểu, mỗi lần nhìn thấy chiếc xe máy mẹ lai càng nhớ đến bố nhiều hơn, mẹ buồn, mẹ khóc! Chúng tôi cũng thế, cũng khóc. Tôi còn nhớ như in. Buổi chiều theo lệ thường tôi đi học nhưng hôm đó được nghỉ, mẹ sai tôi lấy chìa khóa đưa cho ông khách mua xe. Phủi sơ lớp bụi đóng trên yên xe, ông ta lạnh lùng đặt nó ra khỏi nhà, mẹ đã rươm rươm nước mắt vội quay đi. Dắt xe ra trước sân nhà, ông khách cưỡi lên nó. Con ngựa già dường như không vui với người chủ mới, hay nó muốn quyến luyến không chịu rời xa chúng tôi. Trước phút chia tay không bao giờ hẹn ngày gặp lại. Nó nhất định không chịu nổ máy ngay, nó hục hặc ho lên mấy tiếng khàn đục khó khăn, dường như nó muốn khóc thay cho một lời vĩnh biệt!

Chi Khanh vừa đi học về, thấy tôi đứng tần ngần trước sân, chị vịn vào vai tôi như muốn truyền cho tôi một ít can đảm, hay là chính chị cũng đang mất can đảm. Hương đi học xa chưa về và Trang đi học buổi chiều. Tôi vẫn đứng ở trước sân, chỉ có hai đứa em nhỏ, tội nghiệp, hai em ngây thơ quá không biết gì, chỉ giương đôi mắt to đen tròn như hai hạt nhãn ra nhìn. Mẹ bế Trâm trong lòng, còn em Đạt đang đùa chơi với lũ trẻ con hàng xóm trước sân nhà. Thấy có người khách lạ Đạt nép sau lưng và níu tay tôi, em hỏi một câu rất ngây ngô nhưng đã làm tôi ứa lệ.

- Anh! Sao người ta dắt xe của bố đi kìa?

Tôi nhìn Đạt mà không nói được câu nào. Tim tôi bỗng nhói đau, hơi thở như nghẹn lại nơi cuống họng, đôi mắt tôi nóng cay, tôi cố nuốt xuống một cái gì mặn chát dâng lên trong lòng. Chị Khanh đã ôm tập sách vào nhà từ lâu. Ông khách đã lái chiếc xe của bố lẫn vào dòng người xuôi ngược trên đường phố. Tôi vẫn đứng ở đó trông theo, cho đến khi nó chỉ là một đám khói trắng nhạt nhòa.

Tôi giả bộ đứng trước sân dấu mặt nép sau cánh cửa, chưa muốn bước vào nhà. Nếu tôi bước vào bây giờ tôi sẽ bật khóc trước mặt chị Khanh ngay. Đạt đã trở ra vô tư hồn nhiên chơi đùa với đám trẻ con hàng xóm. Đợi một lúc thấy yên ắng, tôi lách mình bước vào nhà rồi chạy vút lên lầu. Để xua đi những ý nghĩ vẩn vơ tôi cố mở sách ra học bài, những dòng chữ như đang nhảy múa lung linh chao đảo trước mắt tôi. Nhớ mẹ nói, "con trai không được khóc". Tôi cố mím chặt môi.

Nhưng có ai biết đêm về trên căn phòng nhỏ, trong cái thế giới nhỏ bé riêng tư, tôi thường trùm mền kín mít lên cho tới đầu, rấm rức khóc một mình. Mặc cho những giọt nước mắt nóng tuôn ra, tôi không cần phải đè nén. Sau những lúc như thế này, tôi cảm thấy như tâm sự vơi nhẹ đi được nhiều, trong lòng bớt trĩu nặng. Nhưng đồng thời tôi cũng thật khó chịu với cái cá tính yếu đuối của mình. Xấu hổ quá! Mình thua cả một đứa con gái! Thực ra tôi vẫn cố đè nén cảm xúc đấy chứ. Nhưng ban ngày càng cố đè nén bao nhiêu, đêm xuống cảm tính nó lại hành hạ tôi bấy nhiêu. Càng cố quên đi thì nỗi xót xa buồn tủi lại càng thêm quay quắt. Nói thế nào đi nữa, tôi vẫn chỉ là một thằng bé đa cảm, dễ bị chi phối bởi cảm xúc của chính mình.

Tôi học lớp Chín buổi chiều. Cứ mỗi chiều tan trường, nhìn bạn bè trang lứa có bố đón trước cổng trường, tôi buồn đến đứt ruột. Rồi những ngày hai buổi đi về đạp xe trên con đường quê. Cũng con đường làng ấy năm xưa bố mua cho chiếc xe đạp mới, tôi vui tươi hớn hở bao nhiêu, bây giờ rũ buồn thẫn thờ bấy nhiêu. Có hôm thầy giáo nghỉ, học sinh được về sớm hai tiết cuối, bâng khuâng chưa muốn về nhà, tôi đạp xe lang thang qua những cánh đồng cỏ, để hồn lại phiêu du ngụp lặn vào vùng kỷ niệm, nỗi nhớ mênh mang. Chẳng lẽ về nhà với đôi mắt đỏ hoe sưng húp thế này ư? Tôi lủi xe vào bên đường, men theo hàng cây thơ thẩn thả hồn nhìn những con chim đuổi nhau bay lượn trên cành. Buổi chiều, những con chim se sẻ không thấy đâu nữa. Thỉnh thoảng chỉ có vài con sáo lạc đàn tìm nhau cất tiếng hót nghe bơ vơ lạc lõng. Tôi lang thang một hồi, nằm ngả người ra trên những bãi cỏ xanh mướt, nhìn mây chiều trời lãng đãng. "Mây ơi! Sao còn bay mãi không quay về đây…" những lúc như thế tôi thấy mình như nhẹ đi bao niềm tâm sự. Chiều xuống thật nhanh, những tia nắng đang yếu dần, xa xa bếp lửa nhà ai đang nhen nhúm thả những cụm khói lam chiều. Trời sắp tối, muốn ngồi mãi nhưng sợ về trễ mẹ mong. Tôi lên xe đạp vội về nhà.

Căn phòng của tôi trên lầu, nơi bàn học có khung cửa sổ, dạo ấy người ta chưa xây cất nhiều nhà lầu như bây giờ. Từ khung cửa sổ phòng tôi nhìn ra ngoài khoảng khoát lắm. Cứ buổi chiều nhất là những ngày cuối tuần được nghỉ, tôi cứ lặng ngồi ở đây thẫn thờ qua khung cửa nhỏ, nhìn đám mây bay trôi bàng bạc lững lờ trên nền trời xanh thẳm. Bâng khuâng nghĩ đến cuộc đời, thân phận con người, kiếp người sao quá phù du, mong manh như sương khói. Tôi đã bước vào tuổi biết buồn, và cũng từ đây tôi yêu âm nhạc hơn. Có lần tôi bị mẹ bắt gặp khi nhìn thấy tôi ngồi lặng trước bàn học, thả hồn theo đám mây bay trong khung trời chiều nắng nhạt. Mẹ không nói nhưng tôi hiểu lòng mẹ xót xa biết mấy!

Có lẽ mẹ hiểu tôi đang ở tuổi cần một người cha, một người anh. Trong khi nhà tôi bây giờ chỉ toàn đàn bà con gái, có mỗi thằng em trai thi lại nhỏ xíu! Mẹ thường nhắc các anh họ của tôi lâu lâu rảnh xuống ghé nhà để đưa tôi đi chơi. May sao tôi xin mẹ gia nhập vào Boy Scout. Đây là một môi trường sinh hoạt rất tốt. Tuổi thiếu niên của tôi được vui chơi và rèn luyện trong Scout rất nhiều. Sau này mẹ vẫn thường nhắc nhở: "Làm con trai phải can đảm lên không được yếu đuối". Tôi tự hứa sẽ không làm mẹ thất vọng, nhưng mẹ ơi trước sau gì con vẫn chỉ là một thằng con trai mang nhiều xúc cảm trong tâm hồn.

Bố ra đi để lại trách nhiệm nuôi dạy các con cho mẹ gánh vác. Trong cơn lốc định mệnh, cái tàn cây rộng đã bị cuốn băng đi mất, chúng tôi trở thành hụt hẫng, may mà còn mẹ. Cám ơn thượng đế ban cho chúng tôi một người mẹ hiền. Với nghị lực và lòng hy sinh mẹ đã vượt qua tất cả nghịch cảnh. Chúng tôi như lũ chim non lúc nào cũng được mẹ che chở trong vòng tay ấm áp. Cho đến khi lớn khôn ra đời, tôi vẫn không bao giờ quên được tấm lòng hy sinh vô bờ của mẹ.

Bài học thứ hai chúng tôi học được nơi mẹ, là dù có thế nào cũng phải biết đứng dậy để khuất phục nghịch cảnh.

Chương 8

Đổi thay


Tháng năm nhọc nhằn của mẹ rồi cũng qua đi… qua đi… Những chuỗi ngày đen tôi nhất của gia đình tôi cũng đã vượt qua. Theo ngày tháng, chúng tôi từng đứa lớn dần … Đàn chim non ngày nào, giờ đây đang chập chững đôi cánh bay ra khỏi tầm tay của mẹ, tung mình vào cuộc đời…

Thế hệ của chúng tôi sanh ra trong chiến tranh, trưởng thành trong khói lửa, chưa bao giờ thấy một ngày an bình. Chúng tôi lớn dần lên theo nhịp độ của cuộc chiến. Vào những năm cuối, chiến tranh lên đến mức độ cao nhất của nó trước khi kết thúc. Trong bối cảnh của lịch sử, cũng như một số gia đình khác, gia đình tôi cũng bị phân tán. Hai chị Chi và Điệp theo chồng di tản, mẹ cho Trang đi với chị Diệp cho có chị có em.

Buổi chiều tiễn đưa gia đình chị Diệp và em Trang đi, lòng tôi nặng trĩu. Giúp mọi người lên xe, tôi chỉ kịp xiết chặt tay Trang một lần cuối cùng. Mẹ nói với chị trong nghẹn ngào: "Con gái phải theo chồng, khi nào nhớ đến gia đình con đã có em Trang". Mọi người đều hối hả vội vã, lo âu ánh lên từ trong tia nhìn khoé mắt. Đời tôi từ ngày có trí khôn đến giờ, chưa bao giờ phải chứng kiến một cuộc chia tay đau đớn như thế này. Thật đúng là loạn lạc, người đi không biết sẽ phải về đâu? Người ở lại hoang mang lo sợ không biết sẽ phai đối diện với ngày mai thế nào? Cả hai trường hợp đều không có câu trả lời trọn vẹn! Một chữ "buồn", hay một chữ "lo" không đủ để diễn tả! Quả thực, trong thời loạn người ta sẽ lạc nhau! Cha lạc con, anh lạc em, vợ lạc chồng! Lạc cả đường đi, lạc cả lối về! Lạc cả trong tâm tưởng!

Mẹ gạt lệ đưa chị Diệp và em Trang lên xe. Bịn rịn đến mấy cũng phải chia tay, biết nói gì nữa đây khi những giọt nước mắt đã ứa ra lưng tròng mắt. Đường phố chật cứng một rừng người chạy hỗn loạn. Chiếc xe hối hả lăn bánh lao vào dòng xe cộ lẫn dòng người xuôi ngược. Tựa vào cột điện trước sân tiệm thuốc nhà chị Diệp, tôi duỗi mắt trông theo cho đến khi nó tan lẫn vào đám bụi mờ. Tôi vẫn đứng lặng yên như vậy hồi lâu. Lâu lắm, để nhìn trên mặt đường phố muôn ngàn khuôn mặt đang nhảy múa, cuồng quay, qua lại, những khuôn mặt không có hồn, lạc thần, thất sắc. Rồi sau cùng tôi chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ thấy đôi mắt mình bỗng nhòe đi, nhoè đi…

Nắng chiều còn vấn vương trước khi lịm tắt, màn đêm đổ ập xuống thật nhanh. Giờ này chắc chị Diệp và em Trang đã xuống đến miền Tây rồi. Đêm hôm ấy, kho đạn phi trường gần nhà tôi, đạn nổ tơi bời. Lần đầu tiên thực sự tôi cảm thấy gần gũi với chiến tranh. Trong cơn khói lửa kinh hoàng mùi súng đạn, mùi chết chóc đau thương đã cận kề sát quanh đây.

Hôm sau chị Chi xuống tiệm thuốc thăm mẹ, chị mệt mỏi vì mang bầu gần đến ngày sanh. Chị Chi hỏi:

- Diệp nó đi rồi hả mẹ?

Mẹ trả lời trong tiếng thở dài:

- Ừ, mới chiều qua. Mẹ cho Trang đi nữa để chị em chăm nom lẫn nhau. Còn gia đình con, có tính chuyện đi không?

- Con thì đi đâu được, bầu bì thế này, chạy đâu bây giờ? Mong sao Diệp và Trang đi được suôn sẻ.

Tôi trùm mền nằm ngay cái sofa trong tiệm thuốc, không muốn ngồi dậy vì nhớ đến chiều qua vẫn thấy buồn. Tôi mơ màng nghe chị nói chuyện với mẹ. Không ngờ đó là lần cuối cùng mẹ gặp chị. Giờ phút chót gia đình chị Chi cùng lên đường di tản, không kịp nói một lời từ giã. Cho mãi đến mười năm sau gia đình tôi mới thực sự được đoàn tụ. Lúc ấy, trong cảnh nhốn nháo không ai biết được là sẽ đi về đâu? Dòng người cuốn nhau trôi đi như dòng nước. Phải chăng họ đang đi tìm sự sống trong cái chết? Hay họ đang đi tìm cái chết từ sự sống. Nên bước chân ra đi, cứ coi như là một lần… vĩnh biệt!

Mọi người không còn nghi ngờ gì nữa, không cần phải chờ đợi gì nữa. Chuyện gì đến nó sẽ phải đến! Tiếng khóc của những đứa trẻ lạc cha mẹ. Tiếng kêu cứu của những người bị cướp. Tiếng nhạc vang lên từ chiếc máy radio. Tất cả trộn lẫn lại thành một rừng âm thanh hỗn độn của một bản hòa tấu kinh hoàng.

Mọi sự đều phải đổi thay, đổi thay…

Chiến tranh đã kết thúc. Hòa bình đã trở về trên quê hương tôi. Con đường Nam Bắc đã được nối liền, Việt Nam một dải non sông gấm vóc.

Chương 9

Nghiệp dĩ


Tôi đã lớn khôn trưởng thành nhưng vẫn chưa giúp được gì cho gia đình. Trước sau gì tôi vẫn chỉ là một tên ăn hại! Số phận đẩy đưa tôi lại trở về với cái nghiệp dĩ của mẹ là dạy học, mặc dù tôi chả thích tí nào, thành thực mà nói. Tôi không sợ nghèo nhưng bước chân vào nghề này, tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội giúp đỡ gia đình. Tôi đã bỏ trường Sư Phạm hết một lần rồi. Gần một năm trời cứ sáng xách xe đi tối đạp xe về. Lang thang ngoài đường phố, giữa trời đất mênh mông, nhưng chẳng có nghề nào vừa cho tôi, nói cho đúng là chẳng có nơi nào chịu nhận tôi! Sau mẹ biết, mẹ la tôi thì ít nhưng mẹ buồn nhiều. Lòng mẹ thương con tránh sao khỏi xót xa.

Dường như số phận của tôi ông trời đã định sẵn, mình muốn cũng không được, mình trốn chạy cũng không thoát. Hơn nữa tôi cũng đã lớn cần phải tự lập, không lẽ ở nhà với mẹ hoài, biết ngày nào khôn? Tôi trở lại trường Sư Phạm học thêm một khoảng thời gian nữa. Ngày ra trường, không như một số người thích ở gần nhà, sẵn có tính phiêu lưu, tôi chọn dạy học ở một làng chài lưới xa thành phố. Người dân Phước Tỉnh hiền hòa chất phác, đa số sống bằng nghề đánh cá và một ít làm ruộng rẫy.

Ngày đầu tiên nhận trường lớp, tôi bỡ ngỡ không ít. Có những đứa học trò chỉ thua tôi vài tuổi. Thật là ngượng ngùng cho một anh thầy giáo trẻ như tôi ở thành phố xuống dạy làm thầy người ta. Tưởng tượng đi hồi đó tôi mới tuổi đôi mươi. Cái tuổi đời còn non nớt của một đứa học sinh vừa ra khỏi trung học. Học sinh lớn nhất của tôi học lớp Chín mấy em lớn cũng xấp xỉ tuổi tôi, vì ở dưới quê học sinh thường đi học trễ vài ba năm. Đứng trên bục giảng, dù đã chuẩn bị tinh thần tôi vẫn thấy khớp. Tôi cố gắng lấy bình tĩnh tự tin, những năm tháng sinh hoạt Scout đã tập cho tôi tánh dạn dĩ trước đám đông. Dù sao trong những ngày đầu tụi học sinh vẫn thích quậy phá chúng tôi, đám giáo viên trẻ mới ra trường. Tôi “được” hay gọi là “bị” phân công làm chủ nhiệm lớp Chín, đây là một lớp mà chẳng thầy cô nào thèm nhận, vì đa số là những em học sinh lười biếng và khó dạy nhất trường. Đành chịu vậy biết làm sao?

Đã qua gần một tháng tôi tạm làm quen với nếp sinh hoạt mới. Một hôm cô Duyên cùng trường Sư Phạm với tôi ở Sài Gòn xuống, trong văn phòng hiệu trưởng, Duyên đang ngồi khóc rấm rức. Mới sáng nay như thường lệ cô kêu lên trả bài, Duyên bị mấy thằng học sinh của tôi chủ nhiệm, chúng chọc phá cô giáo nói rằng: "Em ơi! Bữa nay anh không thuộc bài!"

Trời ơi! Học trò ơi là học trò! Hỗn láo đến thế sao? Xấc xược đến thế sao? Tôi không thể tưởng tượng nổi! Người ta bảo nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò quả là đúng! Nhớ lại thời Trung học tôi cũng ưa phá mấy cô giáo trẻ. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ có những hành vi và lời nói vô giáo dục đến thế. Chuyện thật không bình thường!

Duyên nhất định không chịu dạy học nữa. Mặc dù bác Hiền, ông hiệu trường già đã năn nỉ hết lời. Tội nghiệp cho bác Hiền, suốt ba mươi năm tận tụy trong ngành giáo dục, nay đã sắp về hưu, nên bác không muốn có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên bác thông cảm và thương chúng tôi như con. Bác nói với Duyên nửa như an ủi nửa như năn nỉ:

- Thôi! Cô đừng giận để tôi bắt tụi nó lên xin lỗi cô. Sẽ phạt nặng chúng nó. Nhưng nếu cô bỏ lớp thì không được, tôi sẽ khó ăn nói với Phòng Giáo Dục.

Cô Duyên hình như vẫn còn giận thằng học trò, nên lời bác Hiền chỉ như gió thoảng qua tai. Tôi ngồi làm thinh nghe "hai cha con" họ đang thương lượng với nhau. Sau cùng cô Duyên nhất định xin bác Hiền ngày mai sẽ về Sài Gòn nghỉ một thời gian! Lâu lâu cô lại rút khăn tay ra chậm nước mắt. Bác Hiền cho rằng tuổi trẻ như chúng tôi thiếu tính nhẫn nại, sức chịu đựng, nhưng dù sao cũng là nóng nảy nhất thời. Phần tôi, tôi sợ cảnh nhìn thấy đàn bà khóc lắm. Trong phòng họp chỉ có ba người, mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ riêng. Trời đã xế trưa sau cùng bác dắt xe đạp ra cổng trường:

- Thôi tôi về anh Hùng, kẻo chút nữa gió biển thổi ngang, đạp xe hai mươi cây số về nhà muốn hụt hơi, tội cho cái thân già này.

Tháng Mười, mùa biển động, trời đang giữa trưa mà gió biển lồng lộng thổi, cát bay rát cả mặt. Sửa lại cái nón trên đầu bác Hiền phân trần:

- Chỉ còn hai năm nữa thôi, tôi muốn yên mà cũng chưa yên được.

Nhìn hàng cây nghiêng ngả trước sân trường, bác chỉ cho tôi thấy:

- Anh thấy đó, như cây muốn lặng mà gió chẳng muốn ngừng.

Tôi thấy bác tội nghiệp quá, bèn vờ đưa đẩy một câu:

- Bác yên chí đi, cháu nghĩ cô ấy làm bộ nhõng nhẽo với bác thôi.
- Ý! Không đâu! Coi bộ cô Duyên làm thiệt, cô bỏ tuốt về Sài Gòn là mệt tôi với anh đó nghe.

Ngừng một chút như để tôi thấm thía câu nói. Bác Hiền nhìn tôi ái ngại:

- Anh đã có mười lăm tiết đây rồi, anh bao dàn nổi sao? Năm ngoái đã có một cô bỏ dạy rồi đó.

Tôi nghĩ bác nói có lý lắm. Cũng như tôi, cô Duyên còn trẻ mới ra truờng, sống xa gia đình nhớ nhà buồn nát ruột nhất là những hôm trời mưa gió, lại bị mấy thằng học trò chọc ghẹo tức đến điên người, chắc Duyên khó chống nổi.

- Vậy để cháu ráng năn nỉ cô Duyên phụ với bác.
- Ừ, dẫu sao anh cũng cùng trường với cô Duyên, tuổi trẻ với nhau dễ thông cảm hơn. Anh ráng giúp tôi đi nghe, được không anh Hùng?
- Dạ, được bác!

Trong câu hỏi của bác đã có sẵn câu trả lời. Tôi dù muốn hay không cũng phải gật đầu nhận lệnh, nói cho vui vẻ một chút đó là nhận lời. Bác nói đúng, cô Duyên giận dỗi mà làm thiệt bỏ về là tôi phải ôm những giờ dạy của cô. Hơn nữa, dù sao tôi cũng muốn chia xẻ với bác một ít trách nhiệm về chuyện này vì đây là học sinh của lớp tôi chủ nhiệm gây ra. Nhất định tôi phải cố hết sức thuyết phục và năn nỉ Duyên, mong cô lấy lại tinh thần. Nhưng hoàn cảnh tôi có khá gì hơn Duyên, tôi cũng đang bị tụi học trò tinh quái đang chọc phá tơi bời.

Chúng tôi học chung trường Sư Phạm với nhau nên coi nhau như bạn thân. Buổi tối ăn vội chén cơm ở nhà bà Năm, tôi liền ghé sang khu nhà tập thể của mấy cô giáo. Tôi gõ cưa bước vào, Duyên trên tay còn cầm cuốn truyện đọc dở dang, kéo ghế mời tôi ngồi, rồi bước vào phòng trong một lát.

Còn một mình tôi đưa mắt nhìn thoáng qua căn phòng của Duyên. Phòng nhỏ nhưng gọn gàng ngăn nắp, thật đúng là con gái mà! Phòng được ngăn ra làm đôi, một nửa làm phòng khách, một nửa làm phòng ngủ. Phòng khách chỉ có một cái bàn viết của cô được kê sát ngay dưới cửa sổ, trên bàn một chậu hoa cúc vàng, chắc của học trò đem tặng. Hai cái ghế dựa một để dưới bàn viết và chiếc kia để sát tường. Cạnh bàn là một kệ sách nho nhỏ, một ít sách vở xếp ngăn nắp. Sát đầu kệ sách, căng sợi dây thả một tấm màn màu xanh nhạt thanh nhã để ngăn ra phòng ngủ. Nhà nhỏ nhưng ấm cúng sạch sẽ gọn gàng. Không như căn nhà của tôi nó bừa bãi như… cái chuồng heo! Sách giáo khoa, sách truyện, báo chí quăng lộn xộn trên bàn trên giường dưới đất. Tôi có thói quen hay đọc sách truyện trước khi đi ngủ nên trên giường tôi lúc nào cũng để sẵn năm ba cuốn. Quần áo giày dép cũng mỗi nơi mỗi cái. Dĩ nhiên là chăn gối mùng mền tôi cứ để nguyên như vậy không bao giờ chịu gấp lại. Và tật xấu của tôi là lười, ít khi nào chịu dọn dẹp. Mỗi lần lũ học trò đến chơi là chúng nó phải bảo nhau thu xếp gọn gàng lại cho ông thầy. Duyên trở ra với ly nước lọc trên tay, cô đặt lên bàn mời tôi:

- Anh Hùng, tối nay không đi uống cà phê hả?
- Uống mãi cũng chán, tối nay ghé thăm Duyên thôi. A! Thế nào, Duyên ở đây đã quen chưa?
- Không quen thì cũng phải quen, nhưng còn nhiều chuyện lu bu quá. Con gái mà anh, cần nhiều thứ lỉnh kỉnh lắm, không thoải mái được như mấy anh.

Duyên nhún vai khẽ rùng mình. Gió biển thổi vào hơi lạnh. Tôi đứng dậy giúp Duyên khép lại cánh cửa sổ nơi bàn viết. Sẵn tôi đưa mắt đảo một vòng:

- Đây cũng khá chứ, nhà cửa khang trang sạch sẽ, có điện có nước đâu thua gì ở thành phố.
- Biết vậy, nhưng nhớ nhà quá hà, buổi tối chẳng dám đi đâu. Làm con trai như mấy anh thật là sướng.
- He he, thật không? Cô giáo mới sướng, được mấy thầy giáo ở đây phụ giúp dọn nhà. Còn tôi có con ma nào đến giúp đâu?
- Duyên ngại lắm nhưng mấy thầy cứ lăng xăng dọn dẹp.
- Mấy thầy cũng tốt đấy chứ hả, đến đón chào cô giáo thành phố mà.
- Thiệt ra, các em học trò nhờ tụi nó giúp Duyên được nhiều chuyện hơn.
- Học trò của Duyên ngoan qua hén. Số cô thiệt là đẻ bọc điều đó, sướng chưa?

Nhắc đến học trò làm Duyên nhớ, tôi chuyển hỏi sang, mặt cô xìu xuống:

- Thiệt là dễ giận quá anh Hùng à, mấy thằng học trò của anh.
- Duyên để tâm mấy thằng ngổ ngáo ấy làm gì. Thay mặt chúng nó tôi xin lỗi cô trước nha.
- Anh có lỗi gì đâu?
- Có chứ, con dại cái mang mà.
- Hi hi! Coi anh kìa.

Để chia xẻ nỗi đau với cô giáo mới, tôi phang liền một câu:

- Duyên à! tôi cũng bị tụi con gái và mấy thằng trời đánh ấy chọc phá tơi bời. Có khá gì hơn cô đâu.

Chắc vẫn còn bực mình chuyện hồi sáng, nhưng thấy tôi cũng bị nạn bầm dập thương đau như cô, nên Duyên bớt giận và hỏi lại:

- Vậy hả? Duyên tưởng có mình bị phá. Thiệt là một lũ mất dạy, học trò quỷ sứ gì đâu.
- He he, xin cô bớt giận. Thằng nào chọc cô tôi sẽ phạt tụi nó.
- Anh phạt bằng cách nào?
- Thì bắt nó đến xin lỗi cô và viết bản tự kiểm.

Tôi biết mình không thể dùng uy quyền để khuất phục tụi nó, với bọn trẻ này phải dùng một cách khác. Như đoán được ý tôi, Duyên nói liền:

- Hm, tự kiểm, viết đến chục lần thì cũng vậy thôi. Coi bộ anh làm được sao?
- Được mà!
- Cách chi đây? Anh nghĩ coi, học trò gì mất dạy quá đáng.
- Đâu đến nỗi tệ như thế Duyên à, mình chưa thử hết mà.

Thoảng một chút buồn, cô đưa tay ngắt cánh hoa cúc vàng bâng quơ tỉa vài chiếc lá úa.

- Chắc Duyên bỏ nghề dạy học quá. Về nhà phụ với má buôn bán cũng sống qua ngày.
- Hê, sao vậy? Trò chơi mới bắt đầu thôi, chưa gì cô đã tính chuyện bỏ cuộc.

Khích Duyên một chút, coi bộ không xong tôi liền xoa dịu Duyên bằng ý nghĩ thoáng qua trong đầu, tôi nói liền một hơi:

- Mấy đứa học trò lớn chúng đâu muốn đến trường. Học vẫn không phải là con đường cho chúng đi. Hết năm nay chúng sẽ rời trường lớp. Con trai làm nghề biển để kiếm tiền, con gái ở nhà phụ giúp cha mẹ. Chúng phá không phải vì ghét mình, chúng chỉ muốn chứng tỏ cũng đang trở thành người lớn thôi! Hiểu như vậy sẽ thấy vơi bớt những muộn phiền của nghề dạy học. Cô bỏ dạy, nghĩa là cô thua cuộc, chúng càng làm tới hơn.

Tôi cố tình khích động vào cái tâm lý và tự ái của Duyên. Duyên vẫn im lặng nghe, tôi hào hứng tiếp:

- Duyên đã coi Thép Đã Tôi Thế Đấy của Tolstoi chưa?
- Xem rồi anh, hồi ở trong trường.
- Thấy thế nào?
- Cũng hay hay.
- Ừ, thì thép đã tôi thế đấy!
- Rồi sao nữa? Anh nói chuyện khó hiểu quá!
- Ha, ha! Thì Duyên cứ vờ coi như mình không thèm chấp đi. Sau đó tìm cách sao cho chúng thích mình. Khi chúng thích mình, có nói gì mà chúng chẳng nghe!

Không trả lời ngay, Duyên đứng dậy rót nước thêm vào chậu hoa cúc. Mấy hôm nay biển động trời nổi gió. Hai cánh cửa đã khép nhưng giờ vẫn lùa qua khe cửa lọt vào thoáng mát lạnh, khiến Duyên rùng mình giọng cô chùng xuống:

- Nhưng mà khó quá anh à!

Như thấy lời khuyên của mình có hiệu quả, tôi tiếp:

- Duyên à, không gì đâu. Chuyện gì khó đến đâu cũng đều có cách giải quyết.
- Anh thì nhiều tài quá mà.
- Tôi có tài cán chi đâu, học thì dốt, làm thì lười.
- Trong trường ai không biết anh làm trưởng ban văn nghệ?
- Làm cái đó cho vui thôi, đàn hát thì ăn cái giải gì chứ?
- Ít nhất cũng làm bọn trẻ để ưa chuộng, còn hơn Duyên chẳng có tài gì?
- Duyên có chứ, ai cũng có mà, chỉ là chưa đem ra xài.
- Anh nói đó là cái gì hả?
- Là tấm lòng!
- Tấm lòng à?
- Đúng, hãy dùng tấm lòng của cô!
- Vậy hả? Để Duyên thử xem.
- Ừ, cứ thử nghe tôi một lần đi. Cô thâu phục bọn trẻ này không khó đâu.
- Để coi sao đã. Cùng lắm thì Duyên xin nghỉ dạy về Sài Gòn.

Tôi nhại theo lời bài hát Đừng Bỏ Em Một Mình của Phạm Duy.

- Đừng bỏ tui một mình, trời lạnh lắm, trời lạnh quá, sao đành!

Duyên bật cười:

- Anh này, lúc nào cũng đùa giỡn được!

Thấy không khí đã bớt căng thẳng tôi hỏi liền:

- Duyên à!
- Gì vậy anh Hùng?
- Đưa đơn xin nghỉ đây, cho tôi xin lại.
- Duyên chưa viết.
- Thiệt không?
- Thiệt mà, nếu anh không sang đây có lẽ đêm nay Duyên viết đơn, sáng ngày mai đưa bác Hiền rồi thu dọn đồ về Sài Gòn luôn.

Tôi giật mình vì không ngờ cô Duyên này trông liễu yếu mảnh mai thế mà khi quyết định lẹ làng dứt khoát còn hơn con trai.

- Vậy hả? Tôi có sức thuyết phục mạnh đến thế sao?

Duyên mỉm cười:

- Có thể tạm coi là như vậy!

Chợt nhớ ngày mai mình có giờ dạy sớm, tôi đứng lên tỏ ý muốn ra về. Vừa bước ra đến cửa, Duyên gọi giật lại, trên môi cô vẫn nở nụ cười hóm hỉnh:

- Anh Hùng nè...
- Gì nữa đây? Cô lại đổi ý là tôi chết chắc!
- À không, anh đọc cuốn Ngựa Chứng Trong Sân Trường chưa?

Bị hỏi bất chợt, tôi như một thằng ngố thành thật trả lời:

- Hm, a…, nghe nói nhưng chưa đọc.
- Vậy mà đòi trị... "ngựa chứng"? Hay dữ ha?

Mắt Duyên trợn tròn, chùn mũi lại có ý cười tôi. Suốt nảy giờ Duyên mới vui được chút ít. Bỗng Duyên xoay mình, nhìn dáo dác như muốn tìm kiếm gì đó. Tôi đang định hỏi trong khi Duyên miệng lầm bầm:

- Mới đây mà, sao mất tiêu rồi?
- Duyên tìm gì vậy?
- À! Không.

Tôi đoán là Duyên muốn tìm cuốn truyện mà cô đang đọc dở dang khi tôi mới bước vào. Tôi đưa mắt tìm phụ với Duyên. Chợt nhìn thấy bìa cuốn truyện ló ra dưới đùi cô. Thì ra lúc nảy ra khép cửa sổ khi trở về cô đã vô tình ngồi đè lên nó. Tôi liếc mắt ra dấu cho Duyên hay. Cô khẽ nghiêng đầu, nhóm người lên rút cuốn truyện ra ngay. Duyên hỏi ngượng ngùng, vuốt nhẹ mái tóc. Trông Duyên quả thật là quá duyên dáng. Cầm cuốn truyện trên tay Duyên di di trước mặt tôi:

- Đây nè, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, truyện mới đem xuống từ Sài Gòn, còn nóng hổi! Có muốn xem không?

Tôi pha trò, chọc Duyên:

- Ha, ha! Đương nhiên là muốn! Vì còn... "nóng hổi à!"
- Không được, tối nay đọc xong, sáng mai Duyên đem đến trường cho mượn.
- Ngày mai, đến mai thì hết nóng hổi rồi! He, he…

Chợt hiểu ra câu nói và cái cười tinh quái của tôi, Duyên co tay đấm vào lưng tôi một cái nhẹ và cười.

- Cái anh này, phá như quỷ. Thiệt là, thầy nào trò nấy!
- A ha! Đau!

Hai đứa chúng tôi cũng cười, tuổi trẻ thật dễ thông cảm. Trong những ngày tháng cùng dạy chung dưới mái trường Phước Tỉnh, Duyên là một trong những người bạn tốt đã khuyến khích và giúp tôi rất nhiều. Đêm ấy tôi về nhà ngủ một giấc thật ngon, để lấy sức nghĩ kế đối phó với đám học trò "quỷ sứ" của tôi.

Thật vậy, chẳng còn cách nào hơn, tôi đành dùng tấm lòng tôi để mà thâu phục đám học trò tinh quái này. Hôm sau tôi đứng trên bục giảng, như đã có chủ tâm trước, tôi dành nguyên một tiết để nói chuyện mà không dạy học gì cả:

- Tôi biết trong số các em ở dưới đây có nhiều em không thua tôi nhiều lắm đâu, chỉ vài tuổi là cùng. Đúng! Chỉ vài năm trước tôi cũng thường phá phách thầy cô. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy hối hận. Mai đây có thể các em cũng sẽ đứng ở chỗ của tôi ngày hôm nay.

Cầm đầu đám quậy phá vẫn là những em lớn. Chỉ cần khích tụi này là xong. Sau câu mở đầu, tôi tiếp:

- Dĩ nhiên tôi yêu nghề nên hôm nay tôi mới có mặt ở đây. Tôi đến đây để giảng dạy. Các em đến đây để học tập.

Tôi đang nói một điều không thực sự với lòng mình, lúc ấy tôi chả yêu nghề này tí nào. Học sinh vẫn đang lắng nghe, tôi tiếp:

- Lớp học phải có cái trật tự của nó, phải không? Một số các em đã gây lỗi lầm. Ai cũng có thể lầm lỗi, quan trọng là biết sửa đổi. Tôi không muốn phạt nặng các em, vì tôi biết làm thế chúng ta càng dễ hiểu lầm nhau hơn.

Đánh trúng tâm lý, cả lớp nhìn sang bọn quậy phá bằng con mặt không mấy thiện cảm, chúng đang muốn về phe của tôi. Để lấy lòng chúng tôi vuốt thêm.

- Thật ra, tôi cũng muốn biết nhiều hơn về những suy nghĩ của các em đối với chúng tôi? Có được không?

Câu nói ngọt ngào bao giờ cũng làm cho người ta cảm thấy dễ chịu. Mặc dù trong lúc đó tôi giận bọn trẻ "quỷ sứ" này lắm. Hai chữ nhịn nhục đã thắng cái cảm tính nóng nảy của tôi. Ít nhất vào lúc này, tôi muốn thử xem mình có thể nhịn chúng được đến chừng nào. Tôi muốn cho chúng biết tôi không dễ bị ăn hiếp, và tôi cũng không đến nỗi khó ưa như chúng tưởng tượng.

- Thế nào các em? Chúng ta có thể cùng với nhau làm việc vui vẻ chứ? Ngoài giờ học, buổi chiều tôi thường ở nhà, rất mong các em đến chơi. Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau nhiều hơn. Vậy đi nhé!

Chuông đổ báo tiết học của tôi đã hết, bữa đó tôi chẳng dạy được gì cả. Theo quy định như vậy là tôi đã phạm nội quy, nhưng tôi biết là không sao, vì Bác Hiền cũng muốn tôi thâu phục cái đám học trò hỗn loạn này mà.